Đã lâu rồi chưa xảy ra chuyện ghê gớm đến vậy. Và câu chuyện còn được nhắc lại rất lâu như để chứng minh thêm sự thâm u của vùng đất này.
***
Sâu trong đồng ruộng mênh mông, đất miền Tây cò bay thẳng cánh, lúc mạ mới lên thì xanh ngút ngát tầm mắt nhìn chẳng thấy đường chân trời. Đất ruộng nhiều, dân cư thì thưa thớt. Xóm nào đông nhất cũng chỉ có khoảng hai mươi nóc nhà. Người sống thì ít hơn người chết. Họ nằm rải rác khắp nơi, không mồ mả, lạnh lẽo trong đất những dìa xâm sấp nước, những gò hoang tối tối đầy đốm lửa, lửa ma trơi.
Cũng phải, vùng này từ xa xưa đã chiến tranh giặc giã, xương người lúc cày ruộng vẩn thường bật lên. Dân cũng làm ngơ, coi như là xương con này con kia, cho đỡ sợ. Ngay cả ông Mười lúc cùng nhân công móc đất đắp nền cũng moi được từng khúc, từng khúc xương vùi trong bùn lạnh. Thấy họ sợ, ông cười bảo là xương trâu. Tụi len trâu lùa cả bầy trăm con đi ngang qua, chết rùi bỏ xác luôn là chuyện thường, riết rồi đi đâu cũng gặp xương. Nói vậy, nhưng đợi họ về hết, ông cẩn thận gom lại bỏ vào một cái hủ sành, khi xong việc đắp nền thì hủ sành cũng gần đầy, ông mang qua nghĩa địa cạnh nhà đào hố chôn, đắp mô đất nhỏ, đặt bát hương, ông khấn vái:
- Tôi là người từ xứ khác đến đây cư ngụ. Nay vô tình động đến tiền nhân và các anh em nghĩa sĩ. Từ nay tôi sẽ hương khói nơi này, mong các bậc tiền nhân và hương hồn anh em phù hộ.
Ông nhìn xung quanh, vùng đất hoang vu này là nơi ông gắn bó quãng đời còn lại.
Chuyện về cái hủ xương ông không dám nói cho bà nghe vì bà vốn sợ ma. Cứ đến tối là bà ở miết trong nhà. Nhưng một hôm, đang giữa trưa nắng gắt thì bà Mười nghe tiếng người ồn ào huyên náo. Đang nằm ngủ trưa trên võng, bà bật dậy ngó ra. Hai người đàn ông đang khiên một người đàn ông nữa ngó xanh lè, bợt bạt, mềm nhũn vào. Còn người đàn bà bên cạnh thì vừa đi vừa khóc tức tưởi. Đang mắt nhắm mắt mở bà định thần lại một lúc mới nhận ra là người quen hết. Họ là người trong xóm, và người đàn bà kia là thím Thân, thường hay bán cá cho bà.
Lúc này ông Mười đã từ trong nhà bước ra. Quát hai người đàn ông khiên người bệnh lên phản rồi ông lao đến dùng chiếc đũa nạy miệng anh ta ra.
- Nhanh lên giữ tay chân nó lại không nó cắn lưỡi. Bà vào nhà lấy cho tôi cái hũ màu xanh. Nhanh không chết người bây giờ.
Lúc này người bệnh co quắp tay chân. Mắt long lên trắng dã. Miệng xùi bọt mép. Răng nghiến kèn kẹt. Ngó chừng nguy kịch đến nơi. Ông Mười mồ hôi nhể nhại, dùng tay trái ấn huyệt trên trán, tay phải nhét chiếc đũa vào giữa hàm răng. Cầm cái hũ vợ đưa đổ vào miệng cái chất lỏng có mùi hăng hắc, đổ trào ra ngoài. Chừng một lát thân thể anh ta dần mềm lại, hơi thở đều hòa hơn ông mới rút chiếc đũa ra. Vuốt mồ hôi lên trán ông quát thím Thân:
- Mày còn ngồi đó mà khóc. Vô nhà kêu bả lấy thau nước ấm ra tao pha thuốc lau mình xoa bóp cho nó nè. Nó đã chết đâu mà khóc.
- Khỏe rồi hả chú Mười? Người đàn ông lực lưỡng có vết sẹo dài trên vai hỏi.
- Chưa đâu, chỉ qua cơn nguy hiểm thôi. Chưa chết là may, trể tý nữa là khỏi cứu. Mà sao để nó tới hồi này mới đưa tới?
Không đợi hai người trả lời, ông cầm cái khăn vợ đưa lau mặt rồi ngoắc :
- Hai đứa qua đây uống trà. Để vợ nó lo lau mình, xoa bóp cho nó. Bà phụ con nhỏ đi. Ông nói với vợ, lấy thuốc trong hũ pha nước ấm xoa ngực, lát tôi đưa vài thang thuốc về sắc.
Hai người đàn ông cầm chun trà uống một hơn cạn sạch. Nhìn họ có cái vẻ lực điền, công việc nặng nhọc và nắng mưa tôi luyện nên những người đàn ông vạm vỡ.
- Sao nó bị vậy? Trước giờ tao có nghe nói nó bệnh hoạn gì đâu? Sao tự dưng lên cơn kinh phong bất tử vậy? Ông Mười hỏi.
- Chú nói nó bị kinh phong hả?
- Ừ, thì gọi nôm na là vậy, là do yếu trong người nên bị trúng gió, rồi co giật...
- Nó bị ma nhập đó chú Mười! Người đàn ông có nốt ruồi trên má nói.
- Bậy mày! Ma quỷ gì...
- Thiệt mà. Chứ chú biết tụi tui tìm được nó ở đâu không? Trên gò bà Chín đó. Giọng anh ta run run. Giữa trưa nó lên đó làm gì?
- Lúc nhìn thấy nó là nó đang ngồi gục đầu nói lảm nhảm trên gò đó, kêu nó không xuống. Nhìn hai mắt nó trắng dại hết rồi. Lúc tụi tui mang nó xuống mà thấy lạnh hết cả sống lưng. Chỉ sợ cũng bị nhập nữa thì khổ.
Ông Mười yên lặng cầm chun trà nhấp từ ngụm nhỏ hướng mắt nhìn ra cánh đồng xa xăm. Màn đêm buông xuống, râm ran chỉ có tiếng côn trùng giun dế, gió lùa lá cây xào xạc như hòa vào sự cô tịch của đêm. Ông biết sau hàng cây cuối vườn nhà ông là cả một khoảng không mênh mông, nơi đó giờ đây chỉ có gió mang hơi lạnh lẽo thổi qua cánh đồng mạ non và những gò hoang mồ mả hiu quạnh, những lùm cây rậm rạp thấp thoáng đốm lửa. Khi đến xứ này, ông đã nghe nhiều chuyện mà ông cho là hoang đường. Là một người học hành tử tế, ông không tin lắm. Nhưng sống đến tuổi này, sau khi trải qua nhiều thăng trầm cuộc đời có những chuyện mà thật tâm ông phải bán tín bán nghi, giống như câu chuyện về cái gò thiêng. Lắng tai nghe tiếng bà Mười thở nhẹ nhàng trong buồng. Ông trầm ngâm nhớ lại câu chuyện dân ở đây thường kể lúc rảnh rang.
Ngày đó, có hai mẹ con lưu lạc đến xứ này. Người mẹ nhìn không thể đoán được tuổi vì những nếp nhăn chằng chịt trên khuông mặt sạm đen. Một chân bà bị thọt nhưng dáng vẻ rất nhanh nhẹn. Cô con gái khoảng mười bảy, mười tám, có đôi gò má hồng và mái tóc đen dài. Họ đến từ một chiếc xuồng cũ, bà mẹ cầm dầm lái chiếc xuồng tấp vào cuối bến sông. Trời chạng vạng tối, dòng sông bắt đầu đổi màu, gió chiều len qua từng làn áo người lành lạnh. Mọi người ngó ra, rồi có vài người bước đến hỏi han. Ở đây người còn ít nên mỗi khi có thêm người đến thì ai cũng mừng. Vậy là từ đó cuối xóm có thêm một mái nhà lá nhỏ. Hằng ngày, công việc nhà nông cực khổ bà Chín gánh vác hết, cô con gái ở nhà lo nấu cơm đợi mẹ về ăn. Có thể thấy bà yêu thương cô gái vô cùng. Dù bà mặt bộ đồ rách vá chằng vá đụp nhưng cô gái thì tươm tất trong chiếc áo bà ba lành lặn. Và đáp lại tình yêu của mẹ, cô gái nhỏ lúc nào cũng quẩn quanh chân bà, líu lo như con chim non, làm cho bà vui. Cuộc sống trôi qua tuy vất vả cực nhọc, nhưng đối với họ cũng khá êm đềm. Cô gái càng lớn càng phổng phao xinh đẹp. Cô như bông hoa mới nở đáng lẽ ra không nên có ở cái vùng quê heo hút này. Bà mẹ đã bắt đầu cảm thấy lo lắng khi nhận ra ánh mắt khao khát của đám trai làng dành cho cô. Đối với bà, tình yêu bà dành cho cô như bà đang giữ khư khư một báu vật, chỉ sợ làm mất, chỉ sợ cô bị vấy bẩn. Cuộc đời bà đã quá nhiều cực khổ, xem như hoang phế từ lâu. Giờ đây cuộc sống của bà là dành cho cô.
Vậy mà cuộc sống sao quá tàn nhẫn với bà khi đang tâm cướp đi mất nguồn sống duy nhất, là biết bao nhiêu hy vọng mà bà ấp ủ nâng niu, ánh sáng cuộc đời bà. Vào một buổi chiều mùa lũ, mọi người nghe thấy tiếng kêu thất thanh của bà Chín phát ra từ căn chòi nhỏ. Khi chạy đến, họ nhìn thấy bà đang kêu gào tên con gái. Con bà đâu? Mọi người hỏi nhau nhưng chẳng ai biết. Căn nhà nhỏ trống toác, tro bếp nguội lạnh, xung quanh mênh mông là nước, cô gái có thể đi đâu? Mọi người chia nhau đi tìm, họ gọi tên cô gái vang cả cánh đồng đang ngập chìm trong nước lũ. Đến tối lần lượt từng chiếc xuồng trở về trong sự thất vọng. Bà Chín như phát điên. Bà hỏi mọi người có thấy con bà đâu, trước đến giờ cô gái chỉ quanh quẩn quanh nhà chỉ khi đi cùng bà cô mới ra khỏi căn chòi nhỏ. Bà chỉ vừa đi một lát thôi, khi ngoái lại bà còn nhìn thấy con gái đứng trông theo. Vậy mà khi trở về, bà gọi chẳng thấy ai thưa dạ, tìm khắp nơi cũng chẳng thấy. Cô đã đi đâu, đã xảy ra chuyện gì? Mọi người nhìn nhau lắc đầu, chẳng có lẽ cô gái trượt chân chết đuối? Không thể nào, vì nước xung quanh nhà chỉ mới lên đến ngang ngực người. Cô cũng không có cách nào đi xa được vì bà Chín đã lấy chiếc xuồng duy nhất đi rồi. Đêm càng khuya, khi chiếc xuồng cuối cùng trở về, họ nói là họ đã đi tìm rất xa, rất sâu trong bưng mà vẩn không tìm được. Mọi người đành quay về, ngày mai họ sẽ tiếp tục đi tìm. Bà Chín gào khóc tên con. Rồi bà bật dậy đòi đi tìm con. Mọi người phải cắt cử người trông coi bà, vì đêm xuống, ngoài đồng sâu mênh mông nước, tối đen, không nhìn rõ mặt người. Vậy mà nữa đêm mọi người không thấy bà Chín đâu nữa, bà mẹ tội nghiệp đã bỏ đi tìm con lúc nào không hay, giữa màn đêm mịt mùng, từng cơn gió thổi hơi lạnh lẽo, bà như muốn xé toạc màn đêm ra tìm. Tiếng bà khàn đi vì gọi con chỉ còn thanh âm của tiếng lòng bà đang nức nở. Con ơi! Con ở đâu. Đến gần sáng, khi trời đất còn tờ mờ thì mọi người lo lắng đi tìm thì họ nghe tiếng kêu, không, không phải là tiếng người nữa mà là tiếng một con thú bị thương, tiếng gào lên não nùng đau đớn đó vẫn còn ám ảnh trong ký ức nhiều người rất lâu, đó là tiếng bà Chín. Không biết bằng cách nào, có lẽ là nhờ linh cảm của người mẹ, mà bà đã tìm được con gái giữa đồng nước mênh mông, mọi người vội vàng theo tiếng bà tìm đến. Nơi gò đất nổi lên giữa đồng như một ốc đảo là môt cảnh tượng thương tâm, bà Chín ôm chặt cô gái giờ chỉ còn là một cái xác không hồn.
...